Trần Khắc Điền (*)

(TBKTSG) – Việt Nam là nước xuất khẩu nông sản và để xuất khẩu có thể cạnh tranh thì phải hy sinh lợi ích của người nông dân. Đó là nghịch lý của một ngành được ví như trụ đỡ của nền kinh tế.

Áp lực của nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam

Nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam hiện nay đang chịu áp lực lớn từ nhiều phía: thứ nhất là năng suất và chất lượng nông sản thấp do bởi sự manh mún của các mô hình sản xuất nông nghiệp truyền thống. Giá trị gia tăng tạo ra trên sản phẩm là không đáng kể và người nông dân cơ bản vẫn còn quá khó nhọc và “cô đơn” trên mảnh đất của mình; thứ hai là tình trạng biến đổi khí hậu là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến mưa bão, lũ lụt, hạn hán… bất thường và khó dự báo hơn trước. Hậu quả của biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long đã đến nhanh hơn và gây thiệt hại lớn hơn so với các kịch bản đã đưa ra. Trên thực tế, những rủi ro về thiên tai, khí hậu, dịch bệnh, lợi nhuận thấp… đang là những rào cản khiến cho việc thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này rất e dè;

và thứ ba, đại dịch COVID-19 đang ảnh hưởng trầm trọng đến nền kinh tế các nước, trong đó có Việt Nam. Các dự báo quốc tế mặc dù đều đánh giá cao thành quả ứng phó với dịch bệnh của Việt Nam và khả năng hồi phục của nền kinh tế, song đều dự báo mức tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2020 chỉ đạt mức trên dưới 3%, và với vai trò là “bệ đỡ” của nền kinh tế như việc bảo đảm an ninh lương thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu cho đời sống của gần 100 triệu người sẽ là một thách thức vô cùng lớn.

Tái cấu trúc nông nghiệp – cần một động lực mới để phát triển

Để trở thành một nền nông nghiệp sản xuất lớn, cần tạo ra động lực mới cho phát triển. Trong quan điểm phổ biến hiện nay thì tái cấu trúc kinh tế nông nghiệp là đưa ra được một quyết sách mới cho phát triển nông nghiệp , bao gồm chính sách đất đai phù hợp, chính sách tạo lập quan hệ sản xuất mới, điều cần quan tâm đầu tiên là chính sách nào sẽ tạo nên động lực cho phát triển. Một chính sách tạo được động lực phải dựa trên nguyên tắc chia sẻ lợi ích từ phát triển, bao gồm lợi ích chung của quốc gia, lợi ích của cộng đồng địa phương và lợi ích của các bên tham gia vào quá trình sản xuất. Từ động lực đó, có thể đưa ra các cơ chế cụ thể giúp gia tăng năng suất, sản lượng và chất lượng nông sản với giá trị gia tăng cao hơn.

Tái cấu trúc nông nghiệp – cần một nền nông nghiệp chất lượng cao

Đã đến lúc không thể chỉ chú trọng vào các chỉ tiêu sản lượng xuất khẩu, mà nhất quyết phải chuyển sang nền nông nghiệp chất lượng cao, tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao hiệu quả và bền vững. Nông nghiệp công nghệ cao chắc chắn không phải một mô hình kinh tế nên phải gắn liền với chuỗi giá trị sản phẩm và của ngành.

Do đó, tư duy và định hình hình lại các mô hình sản xuất nông nghiệp hiện nay là yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết, trong đó, nhà nước nên: 1- khuyến khích và hỗ trợ các dự án nông nghiệp hữu cơ theo mô hình phát triển bền vững; 2- tập trung đầu tư cho khoa học công nghệ và tăng cường ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp; 3- chú trọng xây dựng chiến lược phát triển các sản phẩm nông sản chủ lực có thể tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu; 4- coi trọng vai trò tạo động lực & dẫn dắt của các tập đoàn kinh tế tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp; và 5- khởi tạo nguồn quỹ mới chuyên cho đầu tư phát triển ngành sản xuất công nghiệp nông nghiệp.

Trong phạm vi một doanh nghiệp, khái niệm “Kiến tạo” mang ý nghĩa tương tự như “Tái lập doanh nghiệp”. Tái lập doanh nghiệp là quá trình tư duy lại (rethink), thiết kế lại (redesign) và xây dựng lại (rebuild) doanh nghiệp nhằm trở nên hiệu quả hơn cho những nhu cầu và mục tiêu mới, và sẵn sàng cho sự thay đổi trong tương lai.

Còn tái cấu trúc là thiết kế lại và xây dựng lại các thành phần hoặc toàn bộ kiến trúc doanh nghiệp (hoặc cấu trúc nền nông nghiệp) nhằm giúp doanh nghiệp trở nên hiệu quả hơn cho nhu cầu và mục tiêu hiện tại.

Tái cấu trúc nông nghiệp – hành động từ quan điểm của doanh nghiệp

Con đường nông nghiệp hữu cơ là phát triển bền vững

1- Môi trường trong sạch. Môi trường là không gian sống của con người và sinh vật, và cũng là nơi cung cấp các nhu cầu về tài nguyên cho con người. Môi trường là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải của con người và sinh vật thải vào môi trường. Các chất thải này bị các quá trình vật lý, hóa học, sinh học phân hủy thành các chất vô cơ, hữu cơ, vi sinh và quay trở lại phục vụ con người. Tuy nhiên, sự phát triển thiếu kiểm soát trong hoạt động nông-lâm-ngư nghiệp hiện nay đang gây ra những hệ lụy ở mức báo động cho môi trường sinh thái và chất lượng sống của chúng ta.

2- Nông nghiệp an toàn. Là nền nông nghiệp coi an toàn thực phẩm, chất lượng hàng hoá nông sản là trọng tâm. Thực phẩm sạch là thực phẩm luôn giữ được chất lượng tự nhiên vốn có của nó, không nhiễm các hóa chất trong quá trình chế biến, bảo quản…. Ngoài ra, thực phẩm sạch còn phải có tính nhân văn, được sản xuất bởi những người có “lương tâm sạch”, tức là chấp hành tốt pháp luật, có ý thức bảo vệ môi trường và vì lợi ích người tiêu dùng. Người mua sẽ trả giá cao hơn cho người sản xuất thực phẩm sạch không phải chỉ vì thực phẩm sạch và an toàn hơn cho sức khỏe của người tiêu dùng, mà còn có ý nghĩa nhân văn, đó là muốn góp phần bảo vệ môi trường và khuyến khích thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, từng bước minh bạch hóa thị trường nông sản an toàn cho người tiêu dùng, từ đó xây dựng được nền nông nghiệp an toàn.

3- Tài nguyên tái tạo. Là một phần của môi trường tự nhiên, tài nguyên tái tạo là loại tài nguyên có sản lượng bền vững và là một trong những chỉ số quan trọng của phát triển bền vững. Khai thác bền vững nguồn tài nguyên tái tạo có thể làm giảm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, suy thoái đất và phá hủy môi trường sống. Nếu tốc độ các nguồn tài nguyên tái tạo được tiêu thụ vượt quá tốc độ tái tạo, sự tái tạo và tính bền vững sẽ không còn được đảm bảo.

Nông nghiệp hữu cơ – ứng dụng công nghệ cao

Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp hữu cơ, hàm ý các hoạt động sản xuất nông nghiệp dựa trên các thành tựu đột phá trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học (chọn tạo và lai giống, bảo quản nông sản thực phẩm…), công nghệ nano (phòng trừ bệnh hại, phân bón cho cây trồng…) và công nghệ lượng tử (xử lý nước…). Với nông nghiệp công nghệ cao đó là tập trung thay đổi phương thức sản xuất từ truyền thống sang hiện đại nhằm thay đổi phương thức quản lý nông nghiệp, mở đường cho những hoạt động sản xuất chính xác, chặt chẽ mà con người không cần có mặt trực tiếp thông qua ứng dụng công nghệ 4.0. Để đất nước Việt Nam (nói chung) và nông nghiệp Việt Nam (nói riêng) có cơ hội tiếp cận những thành tựu của tương lai này, nhà nước nên có cơ chế đặc biệt nhằm chào đón các nhà khoa học – kiều bào trên khắp thế giới có nguyện vọng trở về phục vụ cho đất nước.

Tập trung vào chuỗi giá trị

Chuỗi giá trị là tư duy chiến lược chứ không phải là mô hình kinh doanh như nhiều người lầm tưởng. Dù có thể đa dạng về hình thái sản xuất song các mô hình nông nghiệp hữu cơ phải đáp ứng được ba yêu cầu cơ bản. Một là, phải có được lợi thế về quy mô, tức sản xuất nông nghiệp ở quy mô công nghiệp, nhờ đó tạo khả năng tốt hơn trong hấp thụ vốn và công nghệ. Hai là, phải gắn vào chuỗi giá trị, bao gồm chuỗi giá trị sản phẩm (ví dụ: hạt gạo, cám gạo, dầu gạo, silica…) và chuỗi giá trị ngành (R&D, tạo giống, trồng trọt, chế biến, logistic và phân phối). Ba là, sản phẩm làm ra phải có cơ hội tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Từ chuỗi giá trị sản phẩm trong ngành và ngành có liên quan để chọn ra một/nhóm sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có lợi thế cạnh tranh cao về chất lượng và giá bán nhằm tập trung nguồn lực hỗ trợ cho các doanh nghiệp có sản phẩm xâm nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Để sản xuất nông nghiệp bền vững thì sản xuất theo chuỗi giá trị có ý nghĩa vô cùng to lớn, nhất là khi nước ta đang hội nhập sâu rộng với thế giới, sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là xuất khẩu. Do đó, từng nông hộ, HTX, doanh nghiệp đơn lẻ không thể tự thực hiện được chuỗi sản xuất và tiêu thụ ở thị trường quốc tế. Liên kết giữa các nông hộ, HTX và doanh nghiệp mới đủ năng lực nâng cao giá trị cho nông sản Việt và tiếp đó là xâm nhập thị trường trường quốc tế.

Động lực dẫn dắt & sức mạnh đến từ các tập đoàn kinh tế tư nhân

Ai có khả năng tư duy, hoạch định & thực hành tốt chiến lược về chuỗi giá trị nông nghiệp, và đâu là điểm đến an toàn cho những phát kiến đột phá về công nghệ ứng dụng cho nông nghiệp hữu cơ nếu không phải là các tập đoàn kinh tế tư nhân? Có một thực tế buồn là tập đoàn kinh tế tư nhân có xuất thân gốc và đi lên từ nông nghiệp ở Việt Nam chỉ đếm trên đầu ngón tay, và các tập đoàn có năng lực R&D về khoa học công nghệ ứng dụng cho nông nghiệp CNC thì càng hiếm hoi hơn nữa.

Nói đến tập đoàn kinh tế là nói đến mô hình tổ chức nhóm công ty và quản trị công ty trong tập đoàn, trong khi đây lại là điểm yếu lớn nhất của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam không chỉ trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhiều công ty con, kinh doanh nghiều ngành nghề, nhiều sản phẩm không đồng nghĩa nó đã là một tập đoàn kinh tế, và khi năng lực quản trị trong tập đoàn của anh cũng kém….thì chúng ta càng không thể nói tới phát triển nông nghiệp bền vững được.

Trong vai trò như một bác sĩ hoặc một kiến trúc sư, các chuyên gia tư vấn chiến lược & quản trị công ty sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đồng hành cùng các doanh nghiệp/tập đoàn có tham vọng phát triển lớn trong lĩnh vực nông nghiệp ngay từ ban đầu. Họ cần được trân trọng & động viên vì sứ mệnh này.

Nguồn lực tài chính dành cho phát triển

Do đặc thù của các dự án nông nghiệp CNC là quy mô lớn nên cần nhiều vốn, thời gian thực hiện kéo dài, vòng quay vốn chậm, thời gian hoàn vốn vốn lâu, rủi ro cao… Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam đều có chung hạn chế về năng lực lập luận chứng kinh tế – kỹ thuật để chứng minh tính khả thi của dự án đầu tư, và phần lớn đều là các hồ sơ dự án cắt ghép, dự toán đầu tư, kế hoạch kinh doanh và tài chính đều được xây dựng theo mô hình tài chính cũ đã lạc hậu so chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra, trong quan điểm phổ biến của các ngân hàng hiện nay là cho vay thương mại nên tài sản thế chấp và cho vay trung hạn vẫn là tiêu chí đầu tiên và quan trọng nhất trong hồ sơ xét duyệt của các NHTM.

Trong khi đó, cái mà nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp CNC thực sự cần chính là dòng vốn “tín dụng dành cho đầu tư” thay vì dòng vốn “tín dụng thương mại” phổ biến như hiện nay. Do vậy, vấn đề đặt ra không phải là mở rộng và nới các tiêu chuẩn để doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc tiếp cận được nguồn vốn từ NHTM, mà nhà nước nên khuyến khích và tạo hành lang pháp lý cho sự ra đời của các quỹ tài chính trong nước vừa đóng vai trò như một nhà đầu tư tài chính, vừa có chức năng cung cấp các khoản tín dụng dài hạn tương tự như các NHTM.

Nhà nước nên xác định quỹ tài chính trong nước có nhiệm vụ thu hút nguồn vốn cả trong và ngoài nước, thay vì chỉ trông đợi vào làn sóng M&A & đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp như hiện nay vốn không giúp được gì nhiều cho sự phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân thuần Việt Nam. Ngoài ra, các quỹ tài chính cũng không nên rập khuôn áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá rủi ro tín dụng qua tài sản thế chấp như các NHTM, mà nên tập trung vào việc xây dựng bộ tiêu chí (định tính và định lượng) có tính khoa học nhằm đánh giá và xếp loại các dự án nông nghiệp thông qua báo cáo khả thi dự án đầu tư, và cân bằng rủi ro thông qua tài sản thế chấp là tài sản hiện có đồng thời với tài sản hình thành trong tương lai của dự án đầu tư của doanh nghiệp.

Trần Khắc Điền

Chuyên gia tư vấn của Strategic Foresight

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn https://thesaigontimes.vn/nong-nghiep-viet-nam-de-la-nguoi-dan-dau/

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *